Theo Chiến lược Phát triển Vật liệu Xây dựng Việt Nam, ngành xi măng cần giảm phát thải xuống dưới 650 kg CO2/tấn xi măng vào năm 2030. Để đạt mục tiêu này, các nhà máy có công suất lớn phải lắp đặt hệ thống phát điện từ nhiệt khí thải, sử dụng tối thiểu 20% tro bay hoặc chất thải công nghiệp, và tăng lên 30% vào năm 2030. Nhiên liệu thay thế dự kiến chiếm ít nhất 15% tổng năng lượng sản xuất clinker.

Nguyên nhân chính dẫn đến phát thải cao

PGS.TS Lương Đức Long, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, chỉ ra rằng nguồn phát thải chủ yếu đến từ:

  1. Nguyên liệu sản xuất clinker.
  2. Nhiên liệu nung clinker.
  3. Tiêu thụ điện năng.

Sản xuất xi măng portland – chiếm 99% sản lượng toàn cầu – đặc biệt khó giảm phát thải do đặc tính hóa học của clinker, với 57% CO2 phát thải từ nguyên liệu đầu vào.

Các giải pháp giảm phát thải

  1. Tận dụng nhiệt thải:
    Công nghệ thu hồi nhiệt khí thải có thể giúp các nhà máy tự cung ứng 25-30% điện năng. Hiện tại, 40% nhà máy xi măng tại Việt Nam đã triển khai hệ thống này.
  2. Sử dụng nhiên liệu thay thế:
    Thay thế một phần than bằng rác thải có thể giảm đáng kể phát thải CO2. Việt Nam tạo ra khoảng 60.000 tấn rác thải sinh hoạt/ngày, tương đương 6 triệu tấn than cám/năm – một nguồn năng lượng dồi dào nhưng chưa được khai thác triệt để.
  3. Giảm tiêu thụ clinker trong xi măng:
    Dù người tiêu dùng còn e ngại, việc giảm clinker và tăng phụ gia thay thế sẽ là hướng đi tất yếu để giảm phát thải.

So sánh các nước trên thế giới và tiềm năng cải tiến

Doanh nghiệp xi măng châu Âu đã tối ưu hóa việc sử dụng rác thải làm nhiên liệu, giúp giảm phát thải xuống khoảng 850 kg CO2/tấn clinker – chỉ thấp hơn Việt Nam một chút (905 kg CO2/tấn clinker). Điều này cho thấy, Việt Nam có tiềm năng lớn để cải thiện nếu ứng dụng hiệu quả các công nghệ và tài nguyên sẵn có.

Kết luận:
Giảm phát thải khí nhà kính trong ngành xi măng là thách thức lớn nhưng khả thi. Với các giải pháp tối ưu như tận dụng nhiệt thải, dùng rác làm nhiên liệu, và giảm phụ thuộc vào clinker, ngành xi măng Việt Nam có thể hướng tới mục tiêu bền vững mà vẫn đảm bảo hiệu quả sản xuất.

Người viết: Elly Nguyen
Sales Manager of Supas Vietnam
+84 369 980 010

Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới ngày càng chú trọng bảo vệ môi trường, ngành sản xuất xi măng – một trong những lĩnh vực thải ra lượng lớn CO2 hàng năm – đang đối mặt với áp lực cải tiến. Để đáp ứng yêu cầu này, “Xi măng Xanh” đã ra đời, mang đến giải pháp bền vững cho ngành xây dựng.

Xi măng Xanh là gì?

Khái niệm “xi măng xanh” có thể khác nhau tùy thuộc vào tiêu chuẩn của từng nhà sản xuất, nhưng điểm chung là chúng đều hướng tới việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Đây là loại xi măng thân thiện với môi trường, giảm lượng khí thải CO2 và tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

Những loại xi măng xanh tiêu biểu

  • Xi măng Ekkomaxx: Được làm từ 95% tro bay và 5% phụ gia lỏng tái tạo, loại xi măng này hầu như không phát thải carbon.
  • Xi măng Geopolymer: Sử dụng alumino silic thay vì canxi oxit, giúp giảm tới 95% lượng CO2 so với xi măng truyền thống.
  • Xi măng Magie Oxychloride: Tạo ra từ magie oxit và magie clorua – sản phẩm phụ từ khai thác magie, loại xi măng này mang tính trung hòa với môi trường.

Dù vậy, các sản phẩm này chưa thực sự phổ biến vì chi phí sản xuất và công nghệ còn khá cao. Thay vào đó, các dòng xi măng sử dụng tro bay, xỉ thép đang dần được ưa chuộng ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, với các tên gọi như Portland Cement Blended hoặc Portland Composite Cement, Multi Component Portland Cement

Giải pháp xi măng xanh tại Việt Nam

Tại Việt Nam, việc áp dụng các biện pháp giảm thiểu khí thải carbon đã mang lại nhiều kết quả tích cực, như:

  • Sử dụng tro bay từ nhà máy nhiệt điện và xỉ lò cao từ nhà máy thép để thay thế nguyên liệu đầu vào.
  • Kiểm soát chặt chẽ nhiệt lượng và nguồn than, tái sử dụng chất đốt trong các công đoạn không yêu cầu nhiệt cao.
  • Thay thế đất sét bằng bùn thải trong sản xuất.
  • Hợp tác với FLSmidth để phát triển công nghệ giảm ô nhiễm.

Theo Viện Vật liệu xây dựng Việt Nam (VIBM), tỷ lệ phối trộn tro bay (5-30%) và xỉ lò cao (10-50%) đã được chứng minh tối ưu trong việc nâng cao hoạt tính của xi măng. Nhờ đó, dòng xi măng PCB (Portland Cement Blended) ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thị trường nội địa.

Lợi ích của Xi măng Xanh

  • Hiệu quả kinh tế: Độ bền tương đương hoặc cao hơn xi măng truyền thống, giá thành giảm nếu tỷ lệ phối trộn hợp lý.
  • Bảo vệ môi trường: Giảm phát thải CO2 và tiêu thụ năng lượng, góp phần bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và cải thiện sức khỏe cộng đồng.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam, như Vicem, Holcim, SCG, đang tiên phong phát triển sản phẩm xi măng xanh với thành phần tái chế ngày càng cao. Tại Supas, chúng tôi tự hào là nhà xuất khẩu tiêu biểu các sản phẩm xi măng Vicem, cam kết đồng hành cùng xu hướng phát triển bền vững vì một tương lai xanh.

Tác giả: Elly Nguyen

Sales Manager of Supas Vietnam

+84 369 980 010

Thành công ban đầu của Việt Nam trong tăng trưởng công suất xi măng được thúc đẩy bởi xuất khẩu clinker mạnh mẽ, đặc biệt là sang Trung Quốc, nơi đã hấp thụ phần lớn nguồn cung dư thừa trong nước. Tuy nhiên, sự tăng trưởng do xuất khẩu này đã bị suy yếu đáng kể khi xuất khẩu sang Trung Quốc giảm. Xuất khẩu clinker của Việt Nam sang Trung Quốc đã bị ảnh hưởng nặng nề vào năm 2022, giảm từ 21,91 triệu tấn vào năm 2021 xuống chỉ còn 3,2 triệu tấn khi Trung Quốc cắt giảm nhập khẩu, về cơ bản đã loại bỏ 22 triệu tấn do các vấn đề khủng hoảng xây dựng. 

Sự sụt giảm mạnh này đã khiến Việt Nam phải vật lộn với vấn đề cung vượt cầu, buộc nhiều nhà sản xuất phải cắt giảm, giãn hoãn hoặc ngừng sản xuất một số dây chuyền có thời hạn. Sự sụt giảm trong xuất khẩu đã đưa khối lượng xuất khẩu clinker của Việt Nam trở lại mức thấp từ trước năm 2015, nhưng với giá thấp, thậm chí dưới giá thành. Điều này làm nổi bật tính dễ bị tổn thương khi phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường xuất khẩu duy nhất.

Gần đây, một số thị trường xuất khẩu chính như Philippines, Đài Loan… đã điều tra chống bán phá giá và áp thuế lên một số sản phẩm xi măng Việt Nam, khiến việc xuất khẩu càng khó khăn. 

Triển vọng xi măng Việt Nam

Nhìn về tương lai, ngành Xi măng Việt Nam đang phải đối mặt với một chặng đường đầy thách thức để phục hồi. Bộ Xây dựng đã khuyến nghị thúc đẩy đầu tư công và đẩy nhanh các dự án cơ sở hạ tầng, cùng với việc giải quyết các vấn đề đang diễn ra trên thị trường bất động sản. Ngoài ra, Bộ Xây dựng cũng đề xuất sử dụng nhiều hơn các cầu cạn bê tông cốt thép trong các dự án đường cao tốc để giúp hấp thụ lượng xi măng tồn kho hiện tại.

Dự kiến sẽ có sự tăng trưởng nhất định về mức tiêu thụ vào năm 2025, với mức tiêu thụ xi măng dự kiến sẽ tăng khiêm tốn 4,5% lên mức 57,18 triệu tấn, phản ánh những dấu hiệu phục hồi ban đầu khi các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên, thị trường xi măng có thể không tăng trưởng đáng kể cho đến năm 2026, khi mức tiêu thụ xi măng nội địa dự kiến sẽ tăng trưởng 10,2% lên mức 65,86 triệu tấn.

Để phát triển bền vững, các nhà quản lý và lãnh đạo ngành đang kêu gọi các chính sách của chính phủ khuyến khích đầu tư vào các loại vật liệu xây dựng tiên tiến, tiết kiệm năng lượng,  phù hợp với các mục tiêu giảm phát thải và xanh hóa. Khi Việt Nam vượt qua những thách thức phức tạp này, làm thế nào để cân bằng giữa ổn định thị trường trong nước và xuất khẩu sẽ rất quan trọng để phục hồi ngành Xi măng trong dài hạn.

Nguồn: Sưu tầm

Sales Manager

Elly Nguyen +84 369 980 010

Năm 2023 là năm khó khăn chưa từng có trong lịch sử của ngành Xi măng Việt Nam, đến từ nội tại ngành và cả yếu tố bên ngoài bất khả kháng. Các doanh nghiệp xi măng đang nỗ lực tái cấu trúc, hướng tới sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên. Hy vọng năm mới 2024, bức tranh có thêm nhiều gam màu tươi sáng hơn.

Khó khăn trong nội tại ngành Xi măng là do nguồn cung vượt quá so với nhu cầu. Hiện nay, cả nước có 58 nhà máy, với 83 dây chuyền, công suất thiết kế 112,5 triệu tấn/năm. Nhưng do ứng dụng cải tạo chiều sâu nên công suất thực tế có thể lên tới gần 120 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ xi măng toàn xã hội giảm tới 16,9%, so với năm 2022.

Giải quyết dư thừa bằng cách xuất khẩu xi măng nhưng năm 2023 dù xuất khẩu 31,3 triệu tấn, bằng 99,5% so năm 2022 nhưng giá xuất khẩu xi măng, clinker (FOB Quảng Ninh) giảm sâu so với cuối năm 2022, cụ thể, giá xi măng giảm 5 – 6 USD/tấn, giá clinker giảm 9 – 10 USD/tấn.

Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng liên quan đến giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất xi măng, mặc dù đã giảm, nhưng vẫn ở mức cao. 

PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhận định, giai đoạn này, ngành Xi măng đang chịu áp lực lớn, khi khả năng hấp thụ xi măng của nền kinh tế trong nước kém. Giá điện, than và các nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất đều tăng, có thời điểm giá than tăng gấp 3 lần; năm 2023, giá bán lẻ điện bình quân tăng 7,5%… Mặt khác, doanh nghiệp xi măng trong nước đang phải chịu bất lợi khi thuế xuất khẩu clinker tăng từ 5% lên 10%, từ ngày 01/01/2023, không được áp dụng luật thuế giá trị gia tăng.

Tất cả những khó khăn đó đẩy ngành Xi măng vào thế khó, tiến thoái lưỡng nan. Nếu doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh, không thay đổi buộc phải dừng lại. Một số nhà máy có vốn vay đầu tư lớn, nợ ngân hàng nhiều có thể phá sản hoặc phải bán tháo cho nước ngoài. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 8 dây chuyền sản xuất xi măng phải ngừng hoạt động, nhiều nhà máy phải dừng 1 hoặc 2 dây chuyền để giảm lượng tồn kho xi măng.

Theo tính toán của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, năm 2023, cả nước sản xuất và tiêu thụ gần 88,6 triệu tấn xi măng và clinker, đạt gần 79% năng lực sản xuất của 83 dây chuyền, khoảng 70% năng lực thực tế. Tiêu thụ xi măng nội địa năm 2023 đạt 57,083 triệu tấn, bằng 84,3% tiêu thụ nội địa năm 2022.

Mỗi doanh nghiệp sẽ phải có giải pháp, chiến lược khác nhau để vượt qua khó khăn, thách thức, trong giai đoạn hiện nay. Nhưng một giải pháp chung được nhiều doanh nghiệp xi măng lớn thực hiện, đó là đổi mới sáng tạo, hướng tới nền sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên. Đây cũng là hướng đi tất yếu của ngành Xi măng trong tương lai, hướng đến sản xuất xanh và kinh tế tuần hoàn.

Theo ông Đào Nguyên Khánh, Trưởng bộ phận PTBV và Truyền thông Insee Việt Nam cho biết, Insee Việt Nam chọn giải pháp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, tối ưu hóa chi phí sản xuất. Ban lãnh đạo Insee Việt Nam quyết định dừng 1 trạm nghiền để tối ưu hóa chi phí, đồng thời gia tăng xử lý chất thải, tăng tỷ lệ thay thế nhiệt. Trạm nghiền Hòn Chông của Insee Việt Nam đạt kỷ lục mới, giảm chi phí và biến phí rất lớn.

Hay như Vicem là doanh nghiệp xi măng lớn nhất Đông Nam Á, có vai trò dẫn dắt, bình ổn thị trường xi măng Việt Nam. Trong giai đoạn này, Vicem tập trung đổi mới sáng tạo, tiết kiệm chi phí, tăng cường sử dụng rác thải làm nhiên nguyện liệu thay thế, sử dụng bùn thải thay thế sét, sử dụng thạch cao nhân tạo thay thế thạch cao tự nhiên; nghiên cứu sản phẩm mới giảm phát thải ra môi trường, góp phần tiết giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, giảm sử dụng tài nguyên không tái tạo.

Một giải pháp nữa được nhiều doanh nghiệp xi măng lựa chọn đó là tiết giảm chi phí, tái cấu trúc doanh nghiệp, tập trung chuyển đổi số, số hóa trong sản xuất kinh doanh.

Nhận định năm 2024 nhu cầu xi măng trong nước khó tăng trưởng cao. Việc giải ngân vốn đầu tư công tại các địa phương còn chậm, do vướng mắc về thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng… Thị trường bất động sản sẽ phục hồi nhưng chưa thể sôi động ngay trở lại. Bên cạnh đó, nguồn cung xi măng tiếp tục vượt xa cầu, một số dây chuyền mới có thể đi vào sản xuất như: Vissai Đại Dương 2, Xi măng Xuân Sơn…

Xuất khẩu xi măng, clinker dự báo sẽ tiếp tục gặp khó do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi; xi măng của Trung Quốc dư thừa, sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi… Thêm vào đó, từ tháng 10/2023, châu Âu bắt đầu triển khai cơ chế điều chỉnh biên giới carbon đối với xi măng nhập khẩu, sẽ là thách thức lớn với doanh nghiệp xuất khẩu xi măng sang châu Âu.

Theo PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam, thị trường tiêu thụ xi măng năm 2024 sẽ khá hơn năm 2023, do nước ta đang trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng nên nhu cầu sử dụng xi măng còn nhiều. Với sự quyết liệt của Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, hy vọng năm 2024 tốc độ giải ngân vốn đầu tư công sẽ khá hơn.

Quy luật thông thường là đường tăng trưởng GDP và tăng trưởng xi măng đồng biến; nghĩa là GDP tăng thì tiêu thụ xi măng sẽ tăng. Tăng trưởng tiêu thụ xi măng trong nước từ năm 2013 đến 2023 (bình quân số học) chỉ đạt 2,35%, trong khi bình quân tăng trưởng GDP giai đoạn này là 5,71%. Như vậy, trong 11 năm vừa qua, mức tăng trưởng tiêu thụ xi măng nội địa của Việt Nam thấp.

Để giúp ngành Xi măng vượt qua khó khăn hiện nay, TS. Nguyễn Quang Hiệp, Phó vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng cho rằng, ngoài đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản; đẩy nhanh đầu tư xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội thì về chính sách thuế, kiến nghị Chính phủ tạm hoãn việc tăng thuế xuất khẩu clinker từ 5% lên 10% và tạm giữ mức thuế suất xuất khẩu clinker ở mức cũ 5% thêm 2 năm. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm clinker xuất khẩu, theo hướng sản xuất clinker xuất khẩu không thuộc đối tượng hàng hóa không chịu thuế giá trị gia tăng.

Đại diện Hiệp hội Xi măng Việt Nam kiến nghị, khẩn trương ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về việc sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế cho các ngành công nghiệp, trong đó có ngành Xi măng. Có chính sách khuyến khích về thuế, tài chính cho nhà máy sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế. Tạo điều kiện để việc vận chuyển, tái sử dụng các chất thải, rác thải làm nguyên, nhiên liệu thay thế được thuận tiện. Cần ban hành các quy định, hướng dẫn các nhà máy xi măng thực hiện kiểm kê, báo cáo phát thải khí nhà kính

Nguồn: Báo xi măng Việt Nam

Nhật Báo Supas Việt Nam năm 2023

Người sưu tập: Elly Nguyen

Sales Manager of Supas Vietnam

Contact whatsapp: +84 369 980 010

THÔNG TIN VỀ THỊ TRƯỜNG XI MĂNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

Sản lượng xi măng của Italia 6 tháng đầu năm tăng 32%

Theo thông tin từ trang Federbeton, sản lượng xi măng của Italia tháng 6/2021 đã tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, sau khi tăng 18% vào tháng 5/2021. Tính chung, trong 6 tháng đầu năm 2021, sản lượng tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong tháng 5/2021, Italia đã nhập khẩu 151.444 tấn xi măng, tăng 75% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch đạt 7,772 triệu EUR, giá trung bình 51 EUR/tấn CIF. Bên cạnh đó, xuất khẩu xi măng trong tháng 5/2021 tăng 10%, lên mức 148.311 tấn. Kim ngạch đạt 8,962 triệu EUR, giá trung bình 60 EUR/tấn FOB, giảm nhẹ so với mức 62 EUR/tấn trong tháng 4/2021. Tuy nhiên, trong những tháng gần đây, giá xuất khẩu xi măng đã tăng so với mức 56 EUR/tấn hồi đầu năm 2021.

Tiêu thụ xi măng của Bolivia tăng gần 26%

Theo dữ liệu của Cục thống kê Bolivia – INE, tiêu thụ xi măng của Bolivia trong tháng 6/2021 đạt 289.440 tấn, tăng 25,6% so với mức 230.378 tấn đạt được trong tháng 6/2020, Tuy nhiên, đã giảm 30,3% so với mức 330.612 tấn đạt được trong tháng 6/2019.

Sản lượng xi măng của Bolivia trong tháng 6/2021 đạt 299.517 tấn, tăng 25,5% so với mức 238.640 tấn đạt được vào tháng 6/2020. Tuy nhiên, vẫn giảm 29,6% so với mức 339.171 tấn đạt được vào tháng 6/2019.

Tiêu thụ xi măng trong tháng 7/2021 của Việt Nam giảm 8%

Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA), tiêu thụ xi măng tại Việt Nam trong tháng 7/2021 giảm 8% so với tháng 7/2020, xuống mức 4.964.884 tấn và giảm 19% so với mức đạt được 6.095.139 tấn trong tháng 6/2021.

Trong đó, tiêu thụ xi măng của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam – VICEM giảm 8% xuống 1.627.342 tấn so với tháng 7/2020 và giảm 22% so với 1.853.650 tấn trong tháng 6/2021, trong khi tiêu thụ xi măng của các Công ty liên doanh giảm 25% so với cùng kỳ xuống 1.037.542 tấn và giảm 28% so với mức 1.434.489 tấn trong tháng 6/2021.

Tuy nhiên, tiêu thụ xi măng của các Công ty sản xuất trong nước đã tăng 2% so với tháng 7/2020, lên 2,3 triệu tấn, nhưng giảm 18% so với mức 2,807 triệu tấn trong tháng 6/2021.

Tính chung trong 7 tháng đầu năm 2021, tiêu thụ xi măng của Việt Nam đã tăng 6% so với cùng kỳ năm ngoái lên 38,575 triệu tấn; trong đó, VICEM tăng 4%, lên 12,209 triệu tấn, trong khi các Công ty liên doanh giảm 5% xuống 9,076 triệu tấn; các Công ty sản xuất xi măng trong nước tăng 14%, lên 17,29 triệu tấn.

Colombia tiêu thụ xi măng tăng 4%

Theo Cục thống kê Colombia – DANE, tiêu thụ xi măng của Colombia trong tháng 7/2021 đạt 1,132 triệu tấn, tăng 3,6% so với mức 1,093 triệu tấn đạt được trong tháng 7/2020 và cũng tăng 7,5% so với mức 1,113 triệu tấn của tháng 7/2019.

Tiêu thụ xi măng đặc biệt tăng mạnh đối với loại bê tông trộn sẵn (tăng 11,9% so với tháng 7/2020) trong đó xi măng bán buôn cho các công trình xây dựng lớn tăng 6,4%, xi măng bán lẻ lại giảm 1%. So với tháng 7/2019, doanh số bán lẻ tăng 5,5%, nhưng doanh số bán buôn cho các công trình xây dựng lớn lại giảm hơn 2% trong khi bê tông trộn sẵn giảm 7,6%.

Tổng doanh số bán buôn xi măng các loại trong tháng 7/2021 tăng 13,8% trong khi tổng doanh số bán lẻ giảm 0,5% so với tháng 7/2020. So với tháng 7/2019, doanh số bán buôn giảm 1,4% và doanh số bán lẻ tăng 3,2%.

Sản lượng xi măng ở Colombia tháng 7/2021 đạt 1,202 triệu tấn, tăng 6,2% so với mức 1,311 triệu tấn trong tháng 7/2020; so với tháng 7/2019 cũng tăng 1,7% so với mức 1,118 triệu tấn.

Tính chung trong 7 tháng năm 2021, tiêu thụ xi măng đạt 7.328 tấn, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Sản lượng xi măng nội địa 7 tháng năm 2021 đạt 7,701 triệu tấn, tăng 27,8% so với mức 6,024 triệu tấn của cùng kỳ năm 2020.

Xuất khẩu xi măng của Pakistan tháng 7/2021 giảm

Xuất khẩu xi măng và clinker của Pakistan trong tháng 7/2021 giảm cả về lượng và kim ngạch so với tháng trước đó và cũng giảm so với cùng tháng năm 2020.

Hiệp hội các nhà sản xuất xi măng Pakistan (APCMA) cho rằng xu hướng sụt giảm cả trong nước và xuất khẩu do thời tiết mưa gió và việc ngừng các hoạt động xây dựng do dịp nghỉ lễ Hồi giáo Eid-ul-Azha trên khắp đất nước Pakistan.

Theo Cục Thống kê Pakistan (FBS), trong tháng 7/2021 ngành công nghiệp xi măng của Pakistan đã xuất khẩu 299.605 triệu tấn xi măng, đạt kim ngạch 11,967 triệu USD, giảm so với mức 372,580 tấn, tương đương 14,325 triệu USD trong tháng 6/2021, tức giảm 19,6% về khối lượng và giảm 16,5% về kim ngạch.

So với tháng 7/2020 cũng giảm tương ứng 50% và 47,8% về khối lượng và kim ngạch. Tháng 7/2020, xuất khẩu 741,391 tấn xi măng, đạt 22,925 triệu USD.

Sản lượng xi măng Pakistan tăng 27%

Theo số liệu của Công ty tài chính FBS, ước tính chỉ số ngành sản xuất công nghiệp của Pakistan tăng 14,9% trong năm tài chính tính từ tháng 7/2020 đến tháng 6/2021 so với cùng kỳ năm trước đó, trong đó bao gồm cả sản xuất xi măng, sự tăng trưởng này nhờ vào sự phát triển của các chương trình xây dựng nhà ở trong nước.

Trong năm tài chính tính từ tháng 7/2020 đến tháng 6/2021, sản lượng xi măng của Pakistan đã tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước đó, lên 49,803 triệu tấn, riêng trong tháng 6/2021 tăng 32,4% lên 4,666 triệu tấn so với 3,523 triệu tấn trong tháng 6/2020.

Nguồn: Báo Xi măng

Nhật Báo Supas Vn năm 2021

Contact number: +84 369 980 010